Shipping on the River Faifo - Drawn by W Alexander 1. Nhận thức và quan điểm nghiên cứu
Với quan niệm coi Đông Á là sự hợp thành bởi hai thế giới Đông Bắc Á và Đông Nam Á, trong lịch sử giữa hai khu vực, mà theo quan điểm của các nhà Khu vực học (Area studies) còn có thể gọi là hai tiểu vùng (sub-region) đã sớm có quan hệ trao đổi văn hóa và phát triển giao thương. Các nhà nghiên cứu văn hóa thường có khuynh hướng nhấn mạnh đến những mục tiêu, hệ quả hay thành tựu tiếp giao giữa các nền văn hóa và coi đó là nhân tố hằng xuyên, mục tiêu cơ bản trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Trong ý nghĩa đó, sự nối kết, giao lưu giữa các nền văn hóa luôn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến triển, làm phong phú thêm đời sống văn hóa của mỗi nền văn hóa cũng như của chung toàn thể khu vực. Điều đó đúng và chúng ta cũng luôn quan niệm như vậy.
Nhưng cũng có thực tế là, trong khi xem xét đến động lực và hệ quả nhiều mặt của sự tiếp giao văn hóa một cách sâu sắc và toàn diện chúng ta không thể không chú ý đến những nhân tố tương tác hợp thành. Những nhân tố đó thậm chí có thể nằm ngoài các mục tiêu văn hóa. Do vậy, trong không ít trường hợp sự hiện diện của những sản phẩm văn hóa này trong nền văn hóa khác hay là những biểu trưng của quá trình tiếp giao đó trên thực tế lại là kết quả của các tác nhân chính trị, quân sự và hoạt động kinh tế. Trong ý nghĩa đó, những người đem các sản phẩm văn hóa của dân tộc mình hay khu vực đến một dân tộc khác, một cách vô thức, đã để lại cho thế hệ sau những hệ quả văn hóa, xã hội nằm ngoài ý thức hành vi truyền tải văn hóa.
Vậy thì, thái độ của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cần phải như thế nào? Trong mọi trường hợp, chúng ta cần trân trọng với tất cả những di sản mà các thế hệ tiền nhân để lại. Nhưng mặt khác, trên phương diện học thuật, cần phải có sự nghiên cứu thận trọng, lý giải thấu đáo về những con đường và hiện tượng “tiếp giao văn hóa” đó. Có thể thấy, trong tiến trình hình thành và xác lập vị thế chính trị, kinh tế,... mỗi quốc gia luôn cần đến một không gian (space) hay môi trường (environment) rộng lớn cho sự phát triển. Nền kinh tế nông nghiệp cũng như du mục hay nói rộng ra là các thể chế nông nghiệp, cùng bản chất phát triển của các nền văn minh nông nghiệp đã quy định nên đặc tính đó. Bên cạnh đó, ngay cả các quốc gia có phạm vi lãnh thổ rộng lớn (đặc biệt là các đế chế) như Trung Hoa ở Đông Á, Ấn Độ ở Nam Á, Lưỡng Hà ở Tây Á hay Ai Cập ở châu Phi… tưởng như có đầy đủ, phong phú các nguồn tài nguyên (trong đó nhân lực - nô lệ được coi là một nguồn tài nguyên giá trị) nhưng trên thực tế nhu cầu phát triển tự thân của một đế chế luôn phải được bổ sung các nguồn tài nguyên hiếm hay bị thiếu hụt từ bên ngoài. Con đường để có được các nguồn tài nguyên đó có nhiều cách khác nhau nhưng thông thường các cường quốc và đế chế thường hay tiến hành chiến tranh để cướp đoạt; ngoại giao để chinh phục, thâu nạp; và xác lập quan hệ giao thương để trao đổi, mua bán sản phẩm. Các đế chế thường áp dụng chính sách của kẻ mạnh tức là luôn muốn và có thể tương đối dễ dàng thực thi một trong ba hay đồng thời cả ba biện pháp nêu trên. Nhưng, đối với các quốc gia trung bình và nhỏ thì nhìn chung chỉ có thể và có khả năng thực hiện chính sách bang giao hòa bình và tìm mọi biện pháp để sinh tồn, phát triển bên cạnh các nước lớn.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có cái nhìn phân lập thì cũng thấy trong mỗi khu vực, vùng thậm chí tiểu vùng, trong từng thời gian, cũng thường nổi lên vai trò của một hay một số quốc gia. Có thể gọi đó là “Đế chế tiểu vùng” (Sub-regional empire). Các quốc gia này thường giữ vai trò chi phối trong các hoạt động chính trị, quân sự, bang giao của khu vực đó. Nói cách khác, như là sự mô phỏng con đường và cách thức của các đế chế, các nước có thế lực trong khu vực đều muốn tự mình trở thành “chúa tể” của tiểu vùng, tìm cách kiểm soát mọi hoạt động trong mỗi khu vực. Trong ý nghĩa đó, việc kiểm soát hay chiếm đoạt các tuyến thương mại là một trong những mục tiêu quan trọng. Để thể hiện uy lực đồng thời cũng là vì sự tồn tại, phát triển của chính mình, các đế chế tiểu vùng cũng thường xuyên gây áp lực với các quốc gia láng giềng thậm chí ép buộc các quốc gia này trở thành nước thần thuộc hay thuộc quốc, phải chịu quan hệ triều cống. Do vậy, như là những mục tiêu xen cài giữa chính trị và kinh tế, các nước nhỏ luôn phải chịu ít nhất hai mối quan hệ chi phối đó là sự đe dọa, áp lực của đế chế tiểu vùng (trực tiếp) và đế chế khu vực (thông thường là gián tiếp) nhưng không kém phần mạnh mẽ, thường xuyên. Ở Đông Bắc Á cũng như ở Đông Nam Á đã từng có không ít những quốc gia có vai trò chi phối như vậy. Ở Đông Nam Á những quốc gia như Phù Nam, Champa, Đại Việt, Angkor, Ayutthaya, Pagan của vùng bán đảo hay Srivijaya, Majapahit… ở Đông Nam Á hải đảo đã từng là những quốc gia cường thịnh một thời. Xuất phát từ quan niệm và cách tiếp cận đa chiều mang tính lịch sử đó, bài viết sẽ tập trung phân tích vai trò của chính quyền Đàng Trong trong việc điều hành, phát triển thương cảng Hội An ở miền Trung Việt Nam và xem xét vị thế của thương cảng này trong truyền thống và hoạt động của hệ thống giao thương Đông Á thế kỷ XVI-XVIII trước khi các quốc gia này phải mở cửa với phương Tây thế kỷ XIX.
2.Từ quan hệ vùng đến quan hệ liên vùng
Cho đến nay, chúng ta thật khó mà có thể lựa chọn một mốc thời gian cụ thể đánh dấu việc xác lập mối quan hệ giữa các quốc gia Đông Á. Bởi lẽ trước khi một ý thức về cộng đồng khu vực xuất hiện thì quan hệ giữa hai hay giữa các nước gần gũi, láng giềng đã được bắt đầu nhiều thế kỷ trước Công nguyên. Các nhà khảo cổ học đã từng nói đến sự tương đồng và quá trình chuyển giao kỹ thuật giữa các nền văn hóa khu vực Đông Bắc Á tức giữa Trung Quốc với bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản từ thời đá cũ. Sự chuyển giao đó có bước chuyển quan trọng vào thời hậu kỳ đá mới bước sang thời đại kim khí. Đó là thời đại hình thành và phát triển của các trung tâm nông nghiệp, của các nền kinh tế sản xuất gắn với sự ra đời của các nhà nước sơ khai (early states)(1).
Tuy nhiên, phải đến thời Hán (206 TCN - 220 SCN) với tư cách là một đế chế lớn, làm chủ một khu vực lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn, trên cơ sở kế thừa nhiều truyền thống văn hóa và tiềm lực kinh tế mà các triều đại trước để lại, nhà Hán bắt đầu mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Nhưng như đã nói ở trên, con đường lan tỏa và truyền bá văn hóa Hán ra bên ngoài được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Người ta vẫn gọi đó là con đường “quan phương” và “phi quan phương”, tức là cùng với các mối quan hệ, giao lưu chính thức giữa các chính thể còn biết bao mối quan hệ giữa các địa phương và giữa các thương nhân cũng như dân chúng dọc theo các vùng biên giới, các thương cảng ven biển, vùng lãnh hải vốn vẫn được coi là là các “biên giới mềm” không ngừng biến đổi và năng động. Đến thời Đường (618-907), với tư cách là một triều đại lớn, một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của khu vực và thế giới, triều đại này đã thiết lập nên hai con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển. Là một triều đại khai mở, có năng lực sáng tạo cao nên văn hóa, kinh tế của vương triều Đường không chỉ có sức lan tỏa mà còn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các trung tâm kinh tế, văn hóa phương Đông và thế giới.
Trên bình diện khu vực, cùng với việc củng cố, xác lập mối quan hệ truyền thống, mật thiết với bán đảo Triều Tiên và quốc đảo Nhật Bản, triều đại này cũng đã thiết lập nên các tuyến giao thương quốc liên quốc gia trong đó có mạng lưới giao thương hàng hải với các nước khu vực Đông Nam Á. Thông qua các thương cảng Đông Nam Á, nhà Đường đã nối kết được thị trường Trung Quốc với Đông Nam Á, với khu vực Nam Á, Tây Á cùng nhiều trung tâm kinh tế, thương mại xa xôi khác. Do vậy, có thể coi việc hình thành hai tuyến thương mại “Đông Dương châm lộ” và “Tây Dương châm lộ” vào thời Tống (960-1279) vừa là sự thể hiện kết quả của truyền thống thương mại Đông Á vừa tiếp tục góp phần thúc đẩy sự giao lưu kinh tế và hợp tác khu vực. Trên thực tế, sự hình thành và hoạt động thường xuyên, nhộn nhịp của hai tuyến thương mại này đã góp phần chấn hưng nền kinh tế Trung Quốc, thể hiện tầm nhìn và mức độ ảnh hưởng rộng lớn của nhà Tống, một triều đại lớn trong lịch sử Trung Hoa. Do vậy, cùng với cuộc “Cách mạng nông nghiệp” (Agricultural revolution) cuộc “Cách mạng thương nghiệp” (Commercial revolution) diễn ra vào thời Tống đã mở rộng ảnh hưởng của Trung Hoa xuống vùng biển phía Nam. Thông qua mối quan hệ với triều Tống, các quốc gia khu vực đã nhận được những hệ quả nhiều mặt từ mối quan hệ này. Vấn đề là, như đã trình bày ở trên, mục tiêu và sức vươn của nền kinh tế Trung Quốc không chỉ là khu vực thị trường Đông Nam Á mà còn là vùng Nam Á và Tây Á rộng lớn, nơi có nhiều sản vật khác lạ mà thị trường Trung Quốc cần.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng từ khoảng thế kỷ II TCN đã có những mối liên hệ giữa miền Nam Trung Quốc với Ấn Độ và vùng Tây Á(2). Giả thuyết khoa học đó đến nay đã được chứng minh trên thực tế. Trong khi bằng chứng về mối quan hệ đó là rất có giá trị và tin cậy thì cũng nên thận trọng khi cho rằng sự hiện diện của những hiện vật có nguồn gốc từ Tây Á hay Ai Cập, La Mã trong nhiều di chỉ khảo cổ học ở Đông Á vào những thế kỷ trước, sau Công nguyên là kết quả của mối liên hệ trực tiếp giữa hai khu vực. Thông thường, vào thời đại bấy giờ, để có được một sản phẩm kinh tế hay văn hóa người ta phải cần đến vai trò trung gian của cư dân hay thương nhân nhiều quốc gia. Như vậy, nhiều thế kỷ trước khi người Hoa có thể thực sự vươn tới vùng biển phương Nam thì các thương nhân Ấn Độ và Đông Nam Á đã từng đóng vai trò chủ đạo trong việc chuyển giao các thành tựu kinh tế, kỹ thuật, văn hóa giữa hai nền văn minh lớn Ấn Độ, Trung Hoa cũng như giữa khu vực Đông Á với Tây Nam Á. Sau những bước xác lập quan hệ ban đầu đó, đến khoảng thế kỷ V-VI mối giao lưu giữa khu vực Đông Bắc Á, mà Trung Quốc là đại diện tiêu biểu, với Đông Nam Á thông qua vai trò của các vương quốc đồng thời là các thể chế biển như Phù Nam, Champa, Srivijaya… đã xác lập nên mạng lưới giao thương mang tính liên vùng và liên thế giới(3).
Cũng cần phải nói thêm là, biển Giao Châu do nằm gần kề với vùng kinh tế phát triển sôi động phía Nam Trung Quốc và giữ vai trò cầu nối giữa hai khu vực kinh tế Đông Bắc Á với Đông Nam Á nên đã sớm được coi là một khu vực có vị trí địa - kinh tế, địa - chiến lược quan trọng nhất ở khu vực phía Bắc Biển Đông và trở thành một trong ba vịnh biển có vị thế kinh tế, chính trị và giao lưu văn hóa thiết yếu của Đông Nam Á. Do điều kiện đi biển thời đại bấy giờ, các vùng biển kín như Giao Châu (mà sau này được gọi là vịnh Bắc Bộ) và hệ thống cảng biển ven bờ, thường gắn với các cửa sông, trở thành địa bàn thường xuyên lui tới của các đoàn thuyền trong nước, quốc tế. Trên cơ sở những nền tảng và điều kiện phát triển thuận lợi đó, nhận thấy tầm quan trọng của Biển Đông, đến giữa thế kỷ XII vương triều Lý (1010-1225) của quốc gia Đại Việt đã cho lập trang Vân Đồn (1149) để đón nhận thuyền buôn các nước đến buôn bán, trao đổi hàng hóa và thiết lập quan hệ bang giao(4).
Trong nhiều thế kỷ, do giữ vị trí cầu nối giữa hai trung tâm kinh tế là Đông Bắc Á và Đông Nam Á nên biển Giao Châu là nơi đón nhận các dòng chảy kinh tế đồng thời là các dòng giao lưu văn hóa, chính trị giữa các quốc gia khu vực. Từ khoảng thế kỷ thứ V, cùng với các mục tiêu kinh tế, tiếp nhận văn hóa, nhiều vương quốc ở Đông Nam Á đã chủ động đến Trung Quốc để thiết lập quan hệ bang giao. Do vậy, các thương cảng miền Nam Trung Hoa trong đó đặc biệt là Quảng Châu đã trở thành nơi lui tới thường xuyên của nhiều sứ đoàn, thương nhân các nước. Trong ý nghĩa đó, chắc hẳn sẽ là điều phiến diện khi cho rằng sự hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á, ngay từ thuở bình minh của nó, chỉ chịu ảnh hưởng và tác động của một luồng văn minh, một yếu tố ngoại sinh (exdogenous factor) duy nhất từ phía Tây tràn tới là văn minh Ấn Độ và sau đó là của nền văn minh Hồi giáo từ Tây Á, Ba Tư.
Nhìn nhận mạng lưới giao thương Đông Á theo trục Bắc - Nam chúng ta thấy, vượt qua biển Giao Châu tiến về phía Nam là vùng đất của quốc gia Champa cổ đại. Vương quốc này hình thành và phát triển trên một không gian lãnh thổ dài và hẹp: Phía Tây giáp với dải núi cao Trường Sơn nơi có lãnh thổ của người Lào, có nguồn lâm sản phong phú của hệ sinh thái nhiệt đới, phía Tây - Nam giáp với Chân Lạp (Campuchia) còn phía Đông là Thái Bình Dương rộng lớn. Do có khí hậu khô, nóng và không gian tương đối hẹp, vương quốc Champa không có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế nông nghiệp(5). Do vậy, cùng với nông nghiệp, sức mạnh kinh tế của vương quốc này còn dựa vào việc khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên, lâm sản, phát triển hải thương, buôn bán nô lệ, thậm chí là tiến hành cướp bóc trên biển. Để tồn tại, phát triển, đủ sức đương đầu với các thế lực từ phía Bắc và phía Nam, Champa đã tự lựa chọn cho mình con đường hướng ra đại dương hết sức mạnh mẽ. Có thể coi Champa là một thể chế biển (Marine polity) bởi đặc tính văn hóa, hoạt động kinh tế gắn với đại dương và thể chế chính trị mang đậm sắc thái biển của nước này. Vương quốc này đã nối kết đồng thời thể hiện năng lực khai thác cao những tiềm năng của biển và lục địa(6). Trong những ngày phát triển cường thịnh, cùng với Phù Nam và Srivijaya,… Champa đã trở thành một cường quốc thương mại khu vực.
Dựa trên nền tảng kinh tế đa dạng với hai trụ cột chính yếu là nông nghiệp và thương nghiệp, từ truyền thống văn hóa bản địa kết hợp với những yếu tố văn hóa ngoại sinh (mà chủ yếu là Phật giáo, Bà La Môn giáo, nghệ thuật, kiến trúc… truyền bá từ Ấn Độ), vương quốc Champa đã sáng tạo nên những thành tựu văn hóa rực rỡ và xác lập một truyền thống văn hóa của riêng mình. Nhiều nhà nghiên cứu coi các tháp Chăm ở miền Trung Việt Nam cũng như Angkor Vat, Angkor Thom ở Campuchia hay Borobudur ở Indonessia và các công trình kiến trúc tôn giáo ở Thái Lan, Myanmar… là những minh chứng sinh động cho thấy vòng ảnh hưởng và mức độ lan tỏa của văn hóa Ấn Độ. Nhưng, mặt khác cũng phải thấy rằng, những công trình kiến trúc tôn giáo đó cũng thể hiện năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng cao của văn hóa Đông Nam Á. Tự cội nguồn và bản chất, Đông Nam Á luôn là thế giới năng động, thích ứng, hội nhập và sáng tạo.
Hiển nhiên, các công trình kiến trúc tôn giáo kỳ vĩ đó đã được xây dựng trên một nền tảng kinh tế vững chắc. Với các tháp Chăm và công trình kiến trúc ở các kinh đô cổ của vương quốc Champa, thậm chí ngay cả những công trình thủy lợi của vương quốc này cũng thể hiện những ảnh hưởng, dấu ấn khá sâu đậm của kinh tế thương nghiệp. Champa đã thiết lập và điều hành hiệu quả mạng lưới trao đổi giữa nội vùng với ngoại vi, giữa các Mandala của Champa với các quốc gia khu vực và quốc tế. Sự thịnh đạt của Chiêm cảng, tiền thân của Hội An về sau, là kết quả của sự lựa chọn một trong những đặc tính phát triển của vương quốc này. Dọc theo sông Thu Bồn theo hướng chảy Tây - Đông có thánh địa Mỹ Sơn ở vùng cao (thượng nguồn), có kinh đô Trà Kiệu (Simhapura, chính trị) ở miền giữa và có thương cảng Chăm (kinh tế thương nghiệp) ở vùng hạ lưu (cửa biển). Ba khu vực đó tạo thành một tổng thể đem lại sức mạnh và thế giới thiêng cho vương quốc Champa. Theo đó, kinh tế, chính trị đã tạo dựng những cơ sở vững chắc cho tôn giáo phát triển. Ngược lại, tôn giáo đã đem lại quyền năng siêu việt cho chính trị đồng thời thúc đẩy, mở rộng các mối quan hệ giao thương.
Tuy nhiên, do những áp lực của lịch sử, trung tâm chính trị, tôn giáo và kinh tế của Champa ngày càng có khuynh hướng chuyển dịch về phía Nam. Điều đó cũng có nghĩa rằng, từ năm 982 người Chăm đã mất đi một đầu mối, một trung tâm kinh tế quan trọng bậc nhất. Đến thế kỷ X-XV, thay cho vị trí của Chiêm cảng vùng cửa sông Thu Bồn lại nổi lên vị trí của cảng biển Thi Nại ở cửa sông Côn gần với kinh đô Vijaya (Bình Định). Thi Nại là “quốc cảng” của Champa và thực sự là một thương cảng quốc tế, nơi đón nhận nhiều đoàn thuyền buôn các nước(7). Nhưng, từ sau năm 1471 Thi Nại đã thuộc về sự kiểm soát của quốc gia Đại Việt. Người Việt thực hiện cuộc Nam tiến, khai phá các châu thổ, thừa hưởng các nguồn lợi tự nhiên và hiển nhiên kế thừa cả một truyền thống thương mại phát triển của vương quốc Champa(8) cũng như của truyền thống văn hóa Sa Huỳnh đã từng hình thành nhiều thế kỷ trước đó. Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, văn hóa Sa Huỳnh từng thể hiện sâu đậm những đặc tính của một nền văn hóa biển và có tính hướng biển mạnh mẽ. Do vậy, cơ tầng văn hóa Đàng Trong nói riêng và Đông Dương nói chung “cho thấy sự giao thoa văn hóa Chăm - Việt - Hoa vẫn tiếp tục diễn tiến từ thiên niên kỷ thứ I của Công nguyên đến giữa cuối thiên niên kỷ thứ II theo xu hướng từ Việt - Chăm đến Chăm - Việt với bao giờ cũng có những yếu tố ngoại sinh Hán - Hoa quan trọng trên phần bán đảo Đông Dương”. Và, “Riêng với cảng thị quốc tế Hội An đó là kết quả giao thoa, đan xen và dung hòa giữa các văn hóa Chăm - Việt - Hoa , và một số yếu tố ngoại sinh khác nữa. Hội An đó là một sự hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa vô cùng đa dạng”(9).
Như vậy, với tư cách của một quốc gia thống nhất, được hợp thành bởi ba truyền thống văn hóa, ba vương quốc cổ trong các mối quan hệ, bang giao khu vực Đông Á, ở miền Bắc nổi lên vị trí của vùng biển đảo Giao Châu (Vân Đồn), miền Trung là cảng Chiêm cảng (Hội An) và miền Nam là Óc Eo (Phù Nam). Trong nhiều thế kỷ, Chiêm cảng nằm ở trung điểm của mạng lưới đó.
3. Vị thế của Hội An trong tuyến hải thương Đông Á
Sự hiện diện của người Việt ở miền Trung đã diễn ra khá sớm nhưng có thể thấy phải đến đầu thế kỷ XIV (1306) sau sự kiện vua Chăm là Jaya Simhavarman III đem hai châu Ô và Lý cho thượng hoàng Trần Nhân Tông (1278-1293) làm lễ vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân, vùng đất Thuận Hóa đã được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Tuy nhiên, phải từ sau sự kiện ra đi của Nguyễn Hoàng (1524-1613) năm 1558 thì sự nghiệp khai phá đất Đàng Trong mới thực sự bắt đầu. Lúc bấy giờ, tuy mới ngoài 30 tuổi nhưng do đã trải nghiệm qua những bước thăng trầm trong đời sống chính trị cung đình ở xứ Bắc, thấu hiểu những điểm mạnh và hạn chế của thể chế chính trị Lê - Trịnh, Nguyễn Hoàng đã quyết tâm dời bỏ vùng đất bản bộ của họ Nguyễn để tiến về phương Nam, thực hiện kế sách tạo dựng một khu vực quản chế độc lập. Với tầm nhìn chiến lược, bằng những biện pháp thận trọng, ông đã chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng và phát triển của một chính quyền cát cứ. Cùng với những thách thức chính trị, xã hội đặt ra trên vùng đất mới, ông hiểu rằng “đất Đàng Trong vẫn là những trung tâm văn hóa của một quá khứ huy hoàng”(10) với cả chiều sâu, mức độ ảnh hưởng và những di sản văn hóa rực rỡ mà người Chăm cũng như các cư dân miền Trung còn để lại. Để thu phục nhân tâm, Nguyễn Hoàng đã ra sức: “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên thực là xây nền từ đấy”(11).
Nhận thấy xu thế cát cứ ngày càng rõ của Nguyễn Hoàng và sau đó là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635), năm 1620 Trịnh Tùng (1570-1623) đã phái 5.000 quân đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp và 7 năm sau cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã nổ ra (1627-1672) kéo dài 45 năm, gây nên những tổn thất nghiêm trọng với cả hai bên tham chiến(12). Do vậy, trong lịch sử Việt Nam từ khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc đến khi quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ tiến ra Bắc Hà, giải phóng Thăng Long năm 1789 lịch sử Việt Nam đã trải qua 214 năm với nhiều thách thức và chuyển biến to lớn. Trong khoảng thời gian đó, do không thể phân thắng bại, giữa hai miền đã hình thành thế cuộc Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchina). Hai vùng lãnh thổ có chính quyền riêng, có cơ sở kinh tế, luật pháp và chế độ quản chế riêng. Tuy diễn ra tình thế phân cát về chính trị nhưng trên các phương diện kinh tế - xã hội cả Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong đã có nhiều biểu hiện phát triển trội vượt rất đáng chú ý trong lịch sử Việt Nam thời trung đại.
Để có đủ kháng lực cần thiết đương đầu với thế lực hùng mạnh của chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, Nguyễn Hoàng đã ban hành và thực thi hàng loạt các chính sách tích cực nhằm xây dựng và củng cố uy lực của một chính quyền mới như khuyến khích khai hoang, trọng dụng người tài (mà Đào Duy Từ là một ví dụ tiêu biểu), xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu trong đó đặc biệt là thủy quân, được trang bị vũ khí hiện đại của phương Tây. Theo C.R.Boxer thì các nhà cầm quyền họ Nguyễn “rất lo lắng là làm sao có được đại bác ở xưởng đúc súng nổi tiếng của Bocarro ở Macao. Xưởng này hoạt động vào các năm 1627-1680 và được đánh giá là đã đúc ra những khẩu đại bác bằng đồng tốt nhất ở phương Đông”(13).
Với tầm nhìn của một chính thể mạnh, luôn giữ thế chủ động trong quan hệ đối ngoại, bên cạnh chính sách khai mở chính quyền Đàng Trong cũng luôn phải lường tính đến việc bảo vệ an toàn cho hệ thống kinh tế đối ngoại trong đó đặc biệt là thương cảng trọng yếu Hội An. Tiếp sau hệ thống phòng vệ, quan sát ở Cù Lao Chàm (Chiêm bất lao, vốn vẫn được coi là tiền cảng của Hội An), các chúa Nguyễn đã thiết lập một căn cứ hải quân mạnh ngay ở phía hữu ngạn cửa sông Thu Bồn, tức vùng Cửa Đại vốn vẫn được gọi là “Đại Chiêm hải khẩu”(14). Bên cạnh đó, vị trí của dinh trấn Thanh Chiêm cũng là nhân tố có ý nghĩa trong việc bảo vệ an toàn, điều hành, xử lý các hoạt động thường xuyên của khu thương cảng. Về công tích của Nguyễn Hoàng, Lê Quý Đôn (1726-1784), một học giả nổi tiếng của Đàng Ngoài thế kỷ XVIII đã có những đánh giá cao về uy danh, tài đức của “chúa Tiên” trong việc quản lý kinh tế, xã hội, xây dựng quân đội và phát triển thương mại với thương nhân các nước(15).
Các chính sách hợp thời và hợp lòng người mà Nguyễn Hoàng thực hiện đã khiến ông có thể tập trung được quyền lực, củng cố được sức mạnh của vương quyền, ổn định xã hội và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó chính là những tác nhân bên trong (endogenous factors) dẫn đến sự xuất hiện của hàng loạt đô thị và cảng thị trong đó tiêu biểu là đô thị cảng Hội An. Trong vòng hơn hai thế kỷ, Hội An đã trở thành trung tâm kinh tế đối ngoại (entrepôts) quan trọng nhất của Đàng Trong và là một trong những thương cảng quốc tế trọng yếu trong tuyến giao thương Đông Á(16). Có thể thấy, “Ngoại thương và nền chính trị trong nước đã kết hợp để tạo nên sức mạnh cho một thương cảng ở vùng biên viễn mà người Việt mới đến định cư đồng thời tạo nên thế ổn định cho vương quốc vừa được thiết lập ở vùng “biên giới” phương Nam hãy còn chưa thực phát triển”(17).
Chúng ta đều biết, thời gian Nguyễn Hoàng xây dựng và củng cố chính quyền Đàng Trong cũng là thời đại hưng thịnh của hệ thống thương mại Đông Á và thế giới(18). Đó là Thời đại hoàng kim (Golden age) đối với nền kinh tế hải thương của nhiều quốc gia khu vực. Do vậy, cùng với việc củng cố các ngành kinh tế trong nước, Nguyễn Hoàng đã đi đến quyết định táo bạo là lựa chọn và đặt cược sự hưng vong của thể chế vào kinh tế ngoại thương. Có nhà nghiên cứu gọi đó là sự lựa chọn sống còn của các chúa Nguyễn(19). Cách thức lựa chọn đó đã đưa Đàng Trong đi đến một xu thế phát triển khác biệt với Đàng Ngoài đồng thời hội nhập mau chóng với mô hình phát triển của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. Dựa vào sức mạnh của kinh tế công thương, như một hệ quả tự nhiên, chính sách của các chúa Nguyễn đã khôi phục vị thế của Chiêm cảng trước đây vốn đã có phần bị suy tàn do những tác động và biến đổi về chính trị. Tên gọi Faifo (Hải phố - Hội An) trở thành địa chỉ quen thuộc của nhiều thương nhân khu vực và quốc tế. Nhưng không chỉ Hội An, một hệ thống cảng miền Trung vốn có truyền thống từ thời đại Champa cũng được phục hồi trong bối cảnh kinh tế, chính trị mới. Trong đó, các thương cảng như Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định) vừa là những thương cảng phát triển độc lập vừa nằm trong mối quan hệ có ý nghĩa tương hỗ cho Hội An. Trên thực tế, với sự dự nhập, hỗ trợ bởi các trung tâm sản xuất và khai thác, các thương cảng miền Trung đã tạo nên một hệ thống liên kết với vai trò điều phối trung tâm của cảng quốc tế Hội An.
Cũng cần phải nói thêm là, vào đầu thế kỷ XV, trong vòng 28 năm (1405-1433) theo lệnh của Minh Thành Tổ, Trịnh Hòa (Zheng He, 1371-1433) đã 7 lần chỉ huy hạm đội hạ Tây dương. Trong 7 chuyến đi đó, Trịnh Hòa đều cho hạm đội từ Nam Kinh tập trung ở Phúc Kiến rồi từ đó tiến đến cảng Chiêm Thành (Chan-ch’êng). Có thể khẳng định rằng, đó chính là cảng Thi Nại (Nước Mặn). Từ cảng thị này, hạm đội của Trịnh Hòa đã chia thành nhiều phái bộ đến các quốc gia Đông Nam Á và tiến sang Tây Nam Á, châu Phi…(20). Như vậy là, khởi đầu từ thời Đường, phát triển trội vượt vào thời Tống, đến thời Minh (1368-1644) do những tiến bộ về kỹ thuật đóng thuyền và tri thức hàng hải, nhiều đoàn thuyền lớn của các quốc gia châu Á không phải nhất thiết tuân thủ theo các tuyến hải thương truyền thống nữa. Từ miền Nam Trung Hoa hay Nhật Bản, các đoàn thuyền buôn có thể tiến thẳng đến các cảng Đông Nam Á. Do vậy, các cảng miền Trung trong đó có Hội An trở thành đầu mối giao thương trực tiếp với các trung tâm kinh tế lớn khu vực.
Với chủ trương trọng thương, vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, Đàng Trong đã trở thành một Thể chế biển, triệt để phát huy truyền thống khai thác biển, phát triển giao thương và giao lưu văn hóa trên biển(21). Nhận thấy kinh tế ngoại thương chỉ có thể tồn tại, phát triển trong hệ thống nên cùng với việc củng cố các trung tâm sản xuất thủ công, khai thác nguyên liệu, chúa Nguyễn cũng có nhiều biện pháp bảo vệ và mở rộng hoạt động của các thương cảng. Sau năm 1672, khi cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn chấm dứt, chúa Nguyễn đã đẩy mạnh khai phá vùng đất phương Nam. Bên cạnh các mục tiêu mở rộng ảnh hưởng đến các vùng châu thổ sông Đồng Nai và cuối cùng là châu thổ Mekong nhằm thúc đẩy tiềm năng kinh tế nông nghiệp hẳn là chính quyền Phú Xuân cũng nuôi nhiều kỳ vọng về tiềm lực của các cảng miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ, nơi tiếp giáp với vịnh Siam cũng như nhiều trung tâm thương mại khác của Đông Nam Á. Trong ý nghĩa đó, đến thế kỷ XVIII, cùng với Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn thì các cảng như Đồng Nai, Sài Gòn, Hà Tiên đều trở thành thương cảng trọng yếu của Đàng Trong, góp phần củng cố sức mạnh cho chính quyền này. Theo đánh giá của giáo sĩ dòng Tên người Ý Cristophoro Borri từng sống ở Đàng Trong trong các năm 1618-1622 thì nhờ có những quan hệ hải thương mà “Chúa đã thu được nhiều lợi nhuận lớn trong việc buôn bán bằng thu thuế hàng hóa cũng như thuế hải khẩu ngài đặt ra và cả nước đều kiếm được nhiều mối lợi không thể tả hết”(22).
Trong các mối quan hệ đa dạng của Đàng Trong, thương nhân và các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã đến xứ Cochinchina sớm nhất. Từ năm 1515, thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Faifo và từ năm 1540 thì cập bến thường xuyên thương cảng này(23). Đến đầu thế kỷ XVII, không chỉ có các thương nhân châu Á, hầu hết các cường quốc thương mại châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh… đều đến Hội An buôn bán(24). Với các quốc gia châu Á, giới thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản đã nhận được nhiều điều kiện ưu đãi trong việc buôn bán với chính quyền Đàng Trong. Có thể nói chưa bao giờ trong lịch sử thương mại Việt Nam nền kinh tế ngoại thương lại có quan hệ rộng mở, đa dạng và phát triển hưng thịnh như giai đoạn thế kỷ XVI-XVII. Hầu hết các cường quốc kinh tế thời đại bấy giờ đều đến thiết lập quan hệ kinh tế với Đàng Trong.
