Lúc bấy giờ tình hình Đàng Trong rối loạn, vì thế ở Đàng Ngoài chúa Trịnh muốn thừa cơ vào chiếm Phú Xuân bèn phái Hoàng Ngũ Phúc cất quân tiến đánh. Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) phụng chỉ làm Bình Nam Tả Tướng Quân, thừa thắng của Hoàng Ngũ Phúc chiếm lấy Phú Xuân. Đầu năm Ất Mùi - 1775, Nguyễn Nghiễm kéo quân cùng đánh nhau với Tập Đình, Lý Tài ở Cẩm Sa (nay thuộc xã Điện Nam, thị xã Điện Bàn - Quảng Nam), Tài, Đình thua chạy về Bến Ván, Nguyễn Nghiễm cho đóng quân từ Cẩm Sa đến Hội An. Trong thời gian dừng quân tại đây, Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm cùng các vị tùy tướng của mình là Uông Sĩ Điển (có người gọi là Uông Sĩ Dư) và Nguyễn Lệnh Tân đến thăm viếng thắng cảnh Quan Công miếu ở Hội An. Đứng trước cảnh tượng linh thiêng nghi ngút khói hương, nhớ đến vị tướng tài trung kiên thời Hán là Quan Vân Trường (Quan Công), Xuân Quận Công làm một bài thơ và một bài tán nội dung như sau:
Sư để Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu - Ảnh: Hồng Việt
● Âm Hán Việt:
Sư để Hội An phố đề Quan Phu tử miếu
Niết ngột Viêm đồ khảng khái thân,
Đào viên huynh đệ tức quân thần.
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ,
Vô luận anh hùng địch vạn nhân.
Tâm thượng Cao Quang hoàn nhất thống,
Mục trung Ngô Ngụy thất tam phân.
Chí kim vạn quốc đồng chiêm phụng,
Phỉ trực nguy nhiên hải thượng thần.
Cảnh Hưng tam thập lục niên, Ất Mùi Đoan dương tiết. Tứ Tân Hợi khoa Tiến sĩ, phụng sai Tả tướng quân nhập thị Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, Tri Đông các kiêm Tri trung thư giám, Quốc sử Tổng tài Đại tư đồ trí sĩ, khởi phục Trung tiệp quân dinh trưởng quan. Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm Hy Tư Phủ thư.
● Tạm dịch:
Dừng chân quân phố Hội An đề miếu Quan Phu tử
Khẳng khái đem thân đỡ Hán đình,
Đào viên huynh đệ nghĩa quân thần.
Tấm gương trung nghĩa oai muôn thuở,
Đâu sá anh hùng địch vạn nhân.
Tâm hướng Cao Quang vì thống nhất,
Chẳng màng Ngô Nguỵ để phân chia.
Đến nay vạn nước đều chiêm ngưỡng,
Lẽ ấy đương nhiên vị thượng thần.
Tiết Đoan Dương năm Ất Mùi tức Cảnh Hưng năm thứ 36 (1775), Tiến sĩ khoa Tân Hợi, phụng chỉ làm Tả tướng quân, rồi thêm chức Nhập thị Tham tụng Thượng thư Hộ bộ, Tri Đông các kiêm giữ chức Tri trung thư giám, Quốc sử Tổng tài Đại tư đồ được về hưu, sau cho mời phục chức Trung tiệp quân dinh trưởng quan. Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm Hy Tư Phủ viết(1).
Quan Phu Tủ miếu tán - Ảnh: Hồng Việt
● Âm Hán Việt:
Quan Phu tử miếu tán
Thiên quyến tây cố,
Đốc sinh thần võ.
Viêm tộ thí vi,
Phỉ cung chi cố.
Đào viên nhất tự,
Huynh đệ quân thần.
Tả chu hữu tuyền,
Lịch khảm lý truân.
Bắc Ngụy Đông Ngô,
Tam phân đỉnh túc.
Thất mã đơn đao,
Đế ư Hán Thục.
Xích tinh nhất tuyến,
Xung mạc khả hồi.
Cao Quang cựu vật,
Thóa thủ trùng khôi.
Phỉ trực dã dũng,
Phỉ trực dã trí.
Trung nghĩa lưu quang
Thiên thu ngưỡng chỉ.
Bí cung hữu tuất,
Di tượng hữu nghiêm.
Mặc phù ngã Việt,
Hách hách viêm viêm.
Cảnh Hưng Ất Mùi chi hạ. Tả tướng quân Hồng Ngư cư sĩ đề.
● Tạm dịch:
Bài tán Quan Phu tử miếu
Hướng Tây trời chiếu lại,
Giáng sinh đấng thần võ.
Ngôi Hán gặp hồi suy,
Nghiêng mình đành chống đỡ.
Vườn đào thề một mối,
Anh em mãi vua tôi.
Tả hữu phải chở che,
Trãi bao phen gian khổ.
Bắc Ngụy Đông có Ngô,
Vạc chia chân ba ngõ.
Một ngựa một tay đao,
Đất Thục xây Hán tộ.
Tinh thành một lòng son,
Xung mạc thu về đủ.
Cao Quang cơ nghiệp cũ,
Khôi phục với tầm tay.
Lòng ngay ấy là dũng,
Trí tài đâu dễ tày.
Trung nghĩa còn sáng rõ,
Nghìn thu ngưỡng mộ dày.
Thanh tịnh cung thờ kín,
Nghiêm trang tượng thánh bày.
Hộ trì cho nước Việt,
Sáng rạng hiển hách thay.
Mùa hạ năm Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng. Tả tướng quân Hồng Ngư cư sĩ đề.
Như trên đã nói, cùng đi với Xuân Quận Công còn có hai vị tỳ tướng là Uông Sĩ Điển và Nguyễn Lệnh Tân với chức vụ là Tùy bình Nam Nhung vụ. Sau khi Nguyễn Nghiễm viết bài thơ trên thì hai ông cũng có hai bài thơ họa lại theo nguyên vận của Xuân Quận Công như sau:
